Nhạc và lời Folklore_(album_của_Taylor_Swift)

Một câu chuyện trở thành văn học dân gian khi nó được truyền miệng và rỉ tai nhau khắp nơi. Đôi khi chúng còn được hát về. Ranh giới giữa giả tưởng và thực tế mờ đi và ranh giới giữa sự thật và hư cấu gần như khó phân biệt được. Suy đoán, theo thời gian, trở thành sự thật. Thần thoại, truyện ma và ngụ ngôn. Truyện cổ tích và dụ ngôn. Chuyện phiếm và truyền thuyết. Bí mật của ai đó được viết trên bầu trời để tất cả mọi người cùng chiêm ngưỡng. Trong giai đoạn giãn cách xã hội, trí tưởng tượng của tôi trở nên vẩn vơ và album này là thành quả, một tập hợp những bài hát và câu chuyện được tuôn trào như dòng ý thức. Cầm bút lên là cách tôi thoát khỏi trí tưởng tượng, lịch sử và ký ức. Tôi kể những câu chuyện này bằng mọi khả năng tốt nhất với tất cả tình yêu, sự kỳ diệu và kỳ lạ chúng xứng đáng có được. Bây giờ quyết định truyền tải chúng hay không nằm ở bạn.

— Swift nói về khái niệm của Folklore, Instagram[36]

Phiên bản tiêu chuẩn của Folklore dài khoảng một giờ ba phút, bao gồm 16 bản nhạc, trong khi bản sang trọng bổ sung thêm một bài hát, "The Lakes", như bản nhạc thứ 17. Ban nhạc indie-folk Mỹ Bon Iver góp giọng trong "Exile", bản nhạc thứ tư. Folklore được viết lời và sản xuất bởi Swift, Dessner và Antonoff, bên cạnh sự tham gia hỗ trợ viết lời từ Joe Alwyn (dưới bút danh William Bowery) trong "Exile" và "Betty", và Justin Vernon, giọng ca chính của Bon Iver, trong "Exile".[17][37] Đây là album đầu tiên trong sự nghiệp của Swift được dán nhãn Parental Advisory.[38]

Sáng tác

Hầu hết các nhà phê bình phân loại Folklore như một bản thu âm alternative, indie folkelectro-folk vốn tách biệt với phong cách pop theo chủ nghĩa tối đa và mang hơi hướng synth trong những tác phẩm trước của Swift.[39][40] Nhà báo Hannah Mylrea của NME mô tả thể loại của nó là indie folk và alternative rock,[41] trong khi Gary Ryan của cùng tạp chí nhận định nó là indietronicachamber pop.[42] Chris Willman của Variety và Jillian Mapes của Pitchfork cũng cho rằng nó là chamber pop.[43][44] Nhà phê bình Michael Sumsion của PopMatters mô tả album như một sự pha trộn của chamber-pop và alt-folk.[45] Folklore bao gồm các yếu tố của nhiều thể loại khác nhau, cụ thể là indie rock,[46] electronica,[47] dream pop[48]đồng quê.[41] Một vài nhà phê bình bác bỏ phân loại nhạc indie và gọi nó là pop.[39][49] Nhà phê bình Amanda Petrusich của The New Yorker gọi Folklore là một bản thu "không rõ thể loại", thiên về atmospheric pop hơn là folk.[50]

Không nhắm đến những bản pop thân thiện với đài phát thanh,[51][52] Folklore hạn chế âm hưởng pop chủ đạo trong nhiều tác phẩm cũ của nữ ca sĩ.[43] Nó bao gồm những bản ballad êm dịu, đậm chất điện ảnh, nhịp độ chậm,[24][43][53] với quá trình sản xuất lo-fi trần tục[54]giai điệu thanh lịch, cùng với đó là một góc nhìn hiện đại về kiểu sáng tác truyền thống.[53] Nó được thực hiện bởi các nhạc cụ bán cổ điển, như tiếng piano nhẹ nhàng,[47] lơ thơ[44] và vang,[53] tiếng ghi ta đa cảm,[44] có độ gảy[53] và tĩnh,[47] những yếu tố điện tử bị lỗi và đứt gãy,[47] bộ gõ rộn ràng,[55] lập trình trốngmellotron êm dịu,[43] dàn giao hưởng quét[44] với dàn dây thanh tao[48]kèn cor.[56] Album không hoàn toàn lảng tránh phong cách synth lộng lẫy và những nhịp phách được lập trình vốn là đặc trưng trong những bản pop của Swift, thay vào đó, chúng biến thành một kết cấu tinh tế,[53] mang đến một không gian âm thanh electro-acoustic.[57]

The Atlantic viết rằng Folklore "bơi qua những nhạc cụ dân giancổ điển phức tạp" với cách sắp xếp như nhạc điện tử, tạo nên một hiệu ứng "kỳ lạ, hấp dẫn và hoài cổ".[58] The Guardian đơn giản hóa album thành một tập hợp các bài hát chamber-pop "kín đáo, được dệt phức tạp".[59] Rolling Stone ghi nhận sự rung cảm của album giống với "Safe & Sound", đĩa đơn năm 2012 của Swift cho The Hunger Games: Songs from District 12 and Beyond.[51] The Ringer chỉ ra rằng Antonoff tạo ra phong cách nhạc dựa trên synth cho bản thu âm, trong khi Dessner đóng góp âm thanh thiên về piano, và liên kết Folklore đến hai bài hát trong Lover—"The Archer" và "It's Nice To Have a Friend"—như những album trước của Swift "thường có vài bài hát giao thoa với album trước hoặc kết nối chúng đến album tiếp theo".[60] Nhiều nhà phê bình nhận thấy kết cấu nhẹ nhàng trong quá trình sản xuất, tạo khoảng trống cho giọng hát và chất trữ tình của Swift bừng sáng.[43][48][61]

Lời và chủ đề

Folklore là một album chủ đề[62] với nội dung được khai phá dựa trên những góc nhìn khác nhau vốn hoàn toàn tách biệt với cuộc sống của Swift, bao gồm các câu chuyện được kể theo ngôi thứ ba[56] xuất phát từ quan điểm của những nhân vật đan xen trong các bài hát.[24] Chủ đề của những sáng tác trong album bao gồm sự bâng khuâng, hoài niệm,[24] thoát tục,[63] chiêm nghiệm,[64]sự đồng cảm.[58] Mặc dù Swift tiếp cận hướng âm nhạc mới, nó vẫn giữ lại những phong cách sáng tác thương hiệu của cô, như sự truyền tải nhiều xúc cảm và nhiệt huyết tuổi thiếu niên.[60] So với nhiều album phòng thu trước, Folklore phản ánh sâu sắc sự tự nhận thức,[47] nội quan,[45]cách kể chuyện sống động[41] của Swift đã cho thấy mức độ cao hơn của tiểu thuyết hóa và ít tham vấn bản thân hơn,[43] tạo nên đỉnh cao với cách tiếp cận hướng ngoại.[58] Chất trữ tình vừa mang tính cá nhân vừa mang tính hư cấu, và đôi khi là sự pha trộn của cả hai.[65] Phạm vi cảm xúc và trần thuật của Folklore được mở rộng bằng cách khai triển trọng tâm từ những câu chuyện cá nhân của Swift đến các nhân vật tưởng tượng và nhân cách hóa.[64]

Những nhân vật hư cấu được mô tả trong Folklore bao gồm một linh hồn tìm thấy kẻ sát hại mình trong đám tang của nó, một cô bé bảy tuổi với một người bạn bị tổn thương tâm lý, một góa phụ già bị thị trấn hắt hủi và đang cai nghiện rượu, và mối tình tay ba giữa ba nhân vật hư cấu—Betty, James, và một người phụ nữ giấu tên—được mô tả trong những bản nhạc "Cardigan", "Betty" và "August", với mỗi tác phẩm được viết từ góc nhìn của mỗi nhân vật ở những thời điểm khác nhau trong cuộc đời họ.[51] Ann Powers của NPR định nghĩa Folklore là một "cơ thể được xây dựng bằng ký ức, cảm nhận chung về thế giới, được xây dựng từ thần thoại, những câu chuyện truyền tai", dựa trên ý tưởng rằng "mỗi chúng ta có văn hóa dân gian của riêng mình", với album là văn hóa dân gian của Swift.[66] Nhiều bài hát trong album thể hiện chất điện ảnh trong lời bài hát,[67] với các vật thể và hiện tượng tự nhiên được đề cập, bao gồm nhật thực, sao Thổ, cực quang, bầu trời hồng ánh tím, không khí mặn, cỏ dạihoa Tử Đằng.[68]

Bài hát

Bản nhạc mở đầu, "The 1", là một bản soft rock[69] được tạo nên bởi sự lập trình linh hoạt[47] tiếng piano nhỏ giọt, bộ gõ tối giản và các điểm nhấn điện tử. Được viết dưới góc nhìn từ một người bạn của Swift, "The 1" mô tả cách tiếp cận mới của họ đối với cuộc sống và tình yêu trong quá khứ một cách tích cực, mong ước rằng họ có thể trở thành tri kỷ.[24][41] "Cardigan" là một bản folk ballad[70] được xây dựng bởi những nhạc cụ mang âm sắc trầm và nhiều cảm xúc[71] như tiếng trống lộc cộc và piano nhẹ nhàng;[72] Swift hát dưới góc nhìn của một nhân vật hư cấu là Betty,[55] người nhớ lại sự xa cách và những lạc quan lâu dài về mối quan hệ với một chàng trai tên là James.[67] Cô đề cập đến Peter PanHigh Line trong bài hát, và sử dụng cardigan như một phép so sánh về sự bền bỉ của một mối quan hệ.[73]

Rebekah Harkness là nàng thơ đằng sau bản nhạc thứ ba "The Last Great American Dynasty".

"The Last Great American Dynasty" là một bản alternative indie pop với các nhạc cụ cổ điển như guitar lướt, viola, vĩ cầm, trống và cấu trúc sản xuất trúc trắc.[41][74] Đây là một bài hát châm biếm kể về câu chuyện của Rebekah Harkness, nhà sáng lập Harkness Ballet, khi cô sinh sống trong căn hộ ở Rhode Island của Swift—Holiday House. Nó thuật lại chi tiết về việc Harkness kết hôn trong một gia đình thượng lưu, bị thị trấn ghét bỏ, và bị đổ lỗi cho cái chết của người chồng lúc bấy giờ và cũng là người thừa kế của Standard Oil, William Harkness, và sự sụp đổ của dòng họ ông. Swift so sánh Harkness với chính mình, thể hiện sự tương đồng giữa những chỉ trích gay gắt mà Harkness nhận được với những chỉ trích cô phải đối mặt xuyên suốt sự nghiệp.[75][76] "Exile" là một bản indie folk[77] mang hơi hướng phúc âm[57] tình cảm[78][79] được Swift song ca với Justin Vernon của Bon Iver, pha trộn giọng hát ngọt ngào của Swift với giọng nam trung trầm khàn của Vernon,[80] nhằm thể hiện một cuộc trò chuyện không thành lời, mang tính chất tranh luận giữa hai người yêu cũ.[77] Nó bắt đầu bằng tiếng piano gằn và tiến đến cao trào bởi dàn hợp xướng, dàn dây kịch tính, synth[81]hòa âm sang trọng.[82] Nó thu hút nhiều so sánh với đĩa đơn năm 2013 của Swift "The Last Time".[77]

Được hát theo quan điểm từ linh hồn của người tình đã khuất, "My Tears Ricochet" là bản nhạc arena-goth lạnh lẽo[83] nhằm phản ánh những căng thẳng sau khi kết thúc một mối quan hệ hôn nhân,[12] sử dụng hình tượng đám tang—một phép ẩn dụ cho Scott Borchettaviệc ông bán đi bản master những tác phẩm trước đây của Swift.[12][67] Nó bao gồm âm thanh một hộp nhạc lấp lánh, dàn hợp xướng hỗ trợ, những đoạn ab-lib vang dội trong phần bridge, và đạt đến cao trào hỗn loạn với những tiếng trống rùng mình.[41][84] "Mirrorball" là một bài hát mang âm hưởng folk, jangle-pop[85] và dream pop[46] với giọng hát xoáy và tiếng guitar thép pêđan,[86] trống lục lạc ấm áp,[58] và guitar búng,[83] khơi gợi cảm giác lo âu trên sàn nhảy.[8] Bài hát miêu tả Swift như một quả cầu Disco, liên quan đến đặc tính phản chiếu của nó, thề nguyện với người nghe rằng sẽ khai phá mọi khía cạnh của họ. Nó kiểm tra khả năng của Swift trong việc giúp mọi người giải trí bằng âm nhạc của nữ ca sĩ, bằng cách hy sinh tính dễ bị tổn thương và sự nhạy cảm của cô.[67][78] Bài hát cũng được hiểu như một tuyên ngôn lãng mạn.[41]

Trong "Seven", bản nhạc thứ bảy đầy hoài niệm,[78] Swift sử dụng quãng âm cao[84] với giọng điệu ngây thơ,[47] hồi tưởng lại một người bạn bị lạm dụng của cô từ thời thơ ấu ở Pennsylvania,[87] người cô không thể nhớ rõ nhưng vẫn có những kỷ niệm khó phai mờ, với quá trình sản xuất âm vang được thiết lập bởi dàn dây và piano nhộn nhịp.[47] Nó mô tả cách cô gợi ý về xu hướng tính dục đồng giới ở những người bạn của cô và thúc giục họ cùng cô chạy trốn đến Ấn Độ.[67][73] "August" là một bản dream-pop ảm đạm[48] kể về câu chuyện ngoại tình giữa hai người vào mùa hè—một cô gái ngây thơ đang giữ chặt một chàng trai vốn "không phải điều cô phải lo đánh mất";[55] chàng trai được tiết lộ là James, ở phần sau của album.[67] Bài hát là một thánh ca mùa hè,[88] chứng kiến cảnh một cô gái đau buồn và khao khát tình yêu của mình, sử dụng cách truyền tải nhẹ nhàng và êm dịu từ Swift, chất giọng biến chuyển liên hồi và một kết cấu âm nhạc hoành tráng với guitar acoustic, âm thanh vang dội lấp lánh, và những đoạn đảo giọng.[48][67]

Bản nhạc thứ chín, "This is Me Trying", là một bản orchestral pop thờ thẫn đề cập đến trách nhiệm và sự hối hận của một kẻ nghiện rượu, người thừa nhận không bao giờ cảm thấy đủ.[67] Quá trình sản xuất dần dần phát triển thành một bối cảnh đầy kịch tính với giọng hát âm vang đầy ma mị của Swift.[47][78] Qua sự sắp xếp mộc mạc nhưng tĩnh lặng[83] của dàn dây gảy ngón và kèn nhẹ,[48] "Illicit Affairs" bộc lộ sự phản bội và tóm tắt những cách mà nhân vật chính không chung thủy đã thực hiện để giữ mối quan hệ ngoại tình trong bí mật[78] "Invisible String" là một bản folk[89] hư không[90] vốn đem đến cái nhìn thoáng qua về tình yêu hiện tại của Swift với nam diễn viên người Anh Joe Alwyn, kể lại mối liên hệ "vô hình" giữa họ mà cả hai không hề hay biết cho đến khi gặp nhau, ám chỉ đến một thần thoại dân gian châu Á có tên Sợi chỉ đỏ định mệnh.[67] Nó được xây dựng xung quanh giọng hát với nhịp mạnh, một đoạn riff acoustic,[67][89] một phong cách sáng tác riêng biệt sử dụng câu bị động để tạo ra lời kể chuyện,[52] và tham khảo các bản hit trước đây của Swift như "Bad Blood" (2015), "Delicate" (2017) và "Daylight" (2019).[67]

Trong bản nhạc thứ 17 "The Lakes", Swift hát về kỳ nghỉ của cô với người yêu ở Windermere, ao hồ lớn nhất ở Anh.

Với những nhận xét gay gắt và châm biếm về chủ nghĩa phân biệt giới tính,[79][86] "Mad Woman" giải quyết điều cấm kỵ liên quan đến sự tức giận của phụ nữ,[67] đóng vai trò như một khoảnh khắc hồi sinh của Folklore.[43] Ẩn dụ cuộc tranh chấp của Swift với Borchetta và Scooter Braun,[12] bài hát mô tả một góa phụ tà đạo đang trả thù, với những đề cập đến các cuộc săn phù thủy[76] gợi liên tưởng đến bài hát năm 2017 của Swift "I Did Something Bad". "Mad Woman" là phần tiếp theo căng thẳng của "The Last Great American Dynasty", và được xem như phiên bản kinh dị của "The Man" (2019). "Epiphany" là một bản ambient,[46] thánh ca thanh tao[86] mô tả sự tàn phá của đại dịch COVID-19, bày tỏ sự trân trọng đến các nhân viên y tế. Swift gọi các bác sĩ và y tá là những người lính hải quân,[55] so sánh họ với người ông là cựu chiến binh quân sự của cô, Dean, người đã chiến đấu trong Trận chiến Guadalcanal (1942) trong Thế chiến thứ hai; cô đồng cảm với nỗi đau của họ khi nhìn thấy cái chết và phải cam chịu với điều đó để tiếp tục phục vụ những người bị ảnh hưởng.[67] Giọng hát của cô thể hiện sự tôn kính và như thiên thần trong "Epiphany", với tiếng piano ảm đạm,[91] bộ đồng[84] và dàn nhạc buồn thảm.[76]

Bài hát thứ 14, "Betty", là một bản đồng quê và folk rock được đan xen bằng harmonica.[41][86] Đó là câu chuyện về mối quan hệ được thuật lại trong "Cardigan", nhưng dưới góc nhìn của người bạn trai lừa dối James,[55] người đã có một mùa hè bay bổng với nhân vật nữ trong "August".[86] James xin lỗi về những sai lầm trong quá khứ của anh nhưng không hoàn toàn làm chủ được chúng, lấy lý do là chứng sợ hãi của anh và ánh mắt lưu luyến của Betty làm lý do bào chữa.[76] Những nhân vật trong chuỗi câu chuyện—Betty, James, và Inez—được đặt theo tên ba người con gái của Ryan ReynoldsBlake Lively.[92] Bản nhạc mang khuynh hướng R&B "Peace" làm nổi bật chất giọng giàu cảm xúc và jazzy của Swift, sử dụng một giai điệu giọng phức tạp[24][83] trên một nhịp điệu kết hợp giữa ba dòng bassline được hòa âm lộng lẫy,[25][79] bổ sung bởi synth tối giản và tiếng piano mưa phùn nhẹ.[57] "Peace" là một bản ode như cầu nguyện,[83] mổ xẻ ảnh hưởng từ mức độ cuồng nhiệt xoay quanh Swift đến mối quan hệ của cô và cảnh báo rằng những chủ đề thách thức đi kèm với chúng đã trở thành một phần trong cuộc sống nữ ca sĩ.[78][88]

"Hoax", bài hát khép lại bản tiêu chuẩn, là một bản piano ballad chậm rãi với ca từ thô mộc đầy cảm xúc kể về một mối quan hệ rạn nứt nhưng bền vững,[24][76] kết thúc album bằng một nốt trầm buồn bã.[93] Bài hát đi kèm bản sang trọng, "The Lakes", là một bản midtempo[93] mà Swift suy nghĩ về việc bán nghỉ hưu ở Windermere, ao hồ lớn nhất ở Anh, tọa lạc tại Lake District;[8] địa điểm cũng được nói đến trong "Invisible String".[67] Tưởng tượng về một bông hồng đỏ mọc ra từ đài nguyên "mà không có ai xung quanh để tweet về nó", Swift tưởng tượng ra một utopia không có mạng xã hội,[43] đề cập đến trầm cảm, hoa Tử Đằng, và William Wordsworth, nhà thơ thế kỷ 19 nổi tiếng với các tác phẩm lãng mạn.[93]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Folklore_(album_của_Taylor_Swift) http://www.ariacharts.com.au/charts/albums-chart http://abcnewsradioonline.com/music-news/2020/8/14... http://anydecentmusic.com/review/12499/Taylor-Swif... http://www.billboard-japan.com/charts/detail?a=hot... http://www.billboard.com/articles/business/chart-b... http://www.billboard.com/articles/business/chart-b... http://www.billboard.com/articles/business/chart-b... http://www.billboard.com/articles/business/chart-b... http://www.billboard.com/articles/business/chart-b... http://www.billboard.com/articles/business/chart-b...